Tham nhũng là một hiện tượng xấu của xã hội, nó gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế của đất nước, làm suy thoái đạo đức, lối sống của không ít cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy Nhà nước, làm cho bộ máy Nhà nước hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả, thậm chí làm mục rỗng bộ máy Nhà nước, đe dọa sự tồn vong của đất nước, của chế độ.

Khoản 1, Điều 3, Luật Phòng chống tham nhũng năm 2018 xác định “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”, chủ thể thực hiện hành vi tham nhũng chính là người có chức vụ, quyền hạn, theo đó Luật Phòng, chống tham nhũng quy định 5 nhóm người có chức vụ, quyền hạn bao gồm: Cán bộ, công chức, viên chức; Sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội Nhân dân, sỹ quan, hạ sỹ quan nghiệp vụ, sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; người giữ chức danh lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức; những người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó; Ngoài ra, theo Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017), chủ thể của các hành vi tham ô tài sản, nhận hối lộ còn có thể là người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước, cụ thể: Tội đưa hối lộ (Điều 364), Tội môi giới hối lộ (Điều 365) hoặc là người không có chức vụ quyền hạn nhưng lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi (Điều 366) cũng là tội trong nhóm các tội tham nhũng.

Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã cho thấy một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, sa vào tệ quan liêu, tham nhũng, gây mất niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Trước những nguy cơ tiềm tàng đó Đảng, Nhà nước ta khẳng định tham nhũng là: “quốc nạn”, là “giặc nội xâm”. Thời gian qua, Đảng, Nhà nước đã không ngừng tăng cường sự lãnh đạo, hoàn thiện thể chế pháp luật liên quan đến công tác phòng, chống tham nhũng, đưa ra các giải pháp để công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng đạt hiệu quả, tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định “Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chuyển biến mạnh mẽ, có bước đột phá gắn kết chặt chẽ giữa "xây" và "chống", có hiệu quả, ngày càng đi vào chiều sâu”.

Để góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên về công tác phòng, chống tham nhũng và tăng cường ý thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên với công tác phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Dưới đây là đề cương giới thiệu nội dung “Các quy định pháp luật liên quan đến cán bộ, công chức, viên chức với công tác phòng, chống tham nhũng” .

I. MỞ ĐẦU

Ở Việt Nam vào bất cứ thời kỳ giai đoạn lịch sử nào cũng có những tấm gương tiêu biểu trong đóng góp công sức, tiền của cho kháng chiến và cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ tổ quốc.Trong thời kỳ kháng chiến tiêu biểu có gia đình thương nhân Trịnh Văn Bô (Hà Nội) đã ủng hộ tới 5.147 lượng vàng, tương đương 2 triệu đồng Đông Dương cho Chính phủ; Vua Mèo Vương Chí Xình (Đồng Văn, Hà Giang) đã ủng hộ 9 cân vàng và 2,2 triệu đồng bạc trắng; Nam Phương Hoàng Hậu (Vợ của cựu hoàng Bảo Đại - khi đó là cố vấn Vĩnh Thuỵ) đã ủng hộ hàng chục chiếc nhẫn, hoa tai, vòng vàng quý, nêu gương cho nhân dân Huế ủng hộ 420 lạng vàng; Bà Thềm - Công chúa Chăm (Ninh Thuận) ủng hộ 1 mũ vàng, 1 quả na, 1 quả khế, 1 nải chuối vàng và cả chiếc mục vàng của dòng họ vua Chăm... Ngày nay gắn với công cuộc xây dựng điện đường, trường trạm, xây dựng nông thôn mới, hàng trăm nghìn heta đất được hiến tặng, hàng triệu ngày công, tiền của được người dân đóng góp cho Nhà nước để cùng Nhà nước xây dựng quê hương, đất nước giàu đẹp, phồn vinh.

Bên cạnh những tấm gương tiêu biểu đóng góp công sức, tiền của, lao động không biết mệt mõi để xây dựng đất nước thì một bộ phận người có chức, có quyền rút ruột ngân khố, lấy của công để phục vụ cho cá nhân, gia đình và người thân của họ, vấn nạn đó được gọi là nạn tham nhũng. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gọi tham nhũng là “giặc nội xâm”, là “quốc nạn”, khi phát hiện các vụ việc tham nhũng Bác cũng nghiêm trị không bao che, một vụ việc điển hình đó là xét xử Trần Dụ Châu, nguyên Giám đốc Nha Quân nhu can tội ăn cắp công quỹ, vào ngày 5/9/1950 tại Chiến khu Việt Bắc, kết thúc phiên tòa, Trần Dụ Châu bị tuyên phạt với mức án cao nhất - tử hình. Bản án đã được báo cáo lên Hồ Chủ tịch, sau khi cân nhắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bác đơn xin giảm tội của Trần Dụ Châu. Quyết định xử tử hình Trần Dụ Châu của Bác thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, không dung thứ cho tội tham nhũng.

Ngay từ những ngày đầu xây dựng chế độ mới, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm nhiều tới công tác phòng, chống tham nhũng. Vì vậy, trong nhiều thập niên, tệ tham nhũng chưa trở thành mối lo của xã hội ta. Tuy nhiên, thời gian gần đây, tham nhũng đang trở thành nỗi bức xúc của toàn xã hội. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, các diễn đàn của Quốc hội, tại các kỳ đại hội Đảng các cấp, nhiều người đã chỉ rõ sự phổ biến của tệ tham nhũng. Những số liệu đáng báo động về tham nhũng đã được chỉ ra “từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, đã thi hành kỷ luật hơn 110 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, trong dó có 27 Uỷ viên Trung ương Đảng, nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng, 4 Uỷ viên Bộ Chính trị, nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, hơn 30 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang”, những vụ án tham nhũng lớn được phanh phui và đưa ra xét xử: Vụ án Đinh La Thăng và đồng phạm phạm tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” và “Tham ô tài sản” xảy ra tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN); Vụ án Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm phạm tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” và “Tham ô tài sản” xảy ra tại Tổng Công ty Cổ phần Xây lắp dầu khí Việt Nam - PVC và Công ty Cổ phần Bất động sản Điện lực dầu khí Việt Nam - PVP Land; Vụ án Phan Văn Vĩnh, Nguyễn Thanh Hóa, Nguyễn Văn Dương và đồng phạm phạm tội “Sử dụng mạng Internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”, “Tổ chức đánh bạc”,“Đánh bạc”, “Mua bán trái phép hóa đơn”, “Rửa tiền”, “Đưa hối lộ” và “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” xảy ra tại tỉnh Phú Thọ và một số địa phương; Vụ án Hà Văn Thắm và đồng phạm phạm tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”, “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”, “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản” và “Tham ô tài sản” xảy ra tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Dương - Ocean Bank; Vụ án Phan Văn Anh Vũ và đồng phạm phạm tội “Cố ý làm lộ bí mật Nhà nước” và “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản” xảy ra tại Công ty Bắc Nam 79 và Ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Á - DAB; Vụ Trần Vĩnh Tuyến - Phó Chủ tịch UBND Thành phố Hồ Chí Minh, Trần Trọng Tuấn- Phó chánh Văn phòng Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh cùng bị khởi tố về tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí; Vụ Vũ Huy Hoàng, nguyên Bộ trưởng bộ Công Thương để điều tra về tội Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí liên quan đến khu "đất vàng" số 2-4-6 Hai Bà Trưng (quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh) xảy ra tại tổng công ty Bia, rượu, nước giải khát Sài Gòn (Sabeco),…

Từ những số liệu trên có thể thấy hai mặt của một vấn đề: Thứ nhất, tình trạng tham nhũng đang diễn ra ngày càng phổ biến, tập trung vào một số người có chức vụ, quyền hạn suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, kèm theo đó là cơ chế kiểm soát quyền lực chưa cao, việc tu dưỡng, rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức và vai trò nêu gương của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị còn có những hạn chế vì vậy những người có chức vụ, đặc biệt những người  giữ chức vụ cao càng có nguy cơ tham nhũng, số tiền tham nhũng có thể lên đến hàng ngàn tỷ đồng, để lại những hậu quả khôn lường cho việc phát triển kinh tế - xã hội tại 1 địa phương hoặc ngành, lĩnh vực, làm giảm sút uy tính của đất nước trên trường quốc tế, kéo giảm các luồng đầu tư của nước ngoài vào nước ta. Thứ hai, những con số về số vụ đại án được phanh phui, xét xử, những cán bộ cấp cao phải cúi đầu nhận tội trước vành móng ngựa đã cho thấy ý chí, quyết tâm chống tham nhũng, “chống giặc nội xâm” của Đảng, Nhà nước ta, việc chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước ta không có vùng cấm, những cá nhân đã nhúng chàm không thể hạ cánh an toàn như phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Phiên họp thứ 12 Ban Chỉ đạo Trung ương về Phòng chống tham nhũng “Lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào cũng phải cháy… cá nhân nào có muốn không làm cũng không thể được”.

Việc nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức về công tác phòng, chống tham nhũng trở thành một yêu cầu cấp bách, tiên quyết trong giai đoạn hiện nay; cán bộ, công chức, viên chức cần được trang bị những kiến thức cơ bản về phòng, chống tham nhũng để tự giác phòng tránh; mỗi một cán bộ, công chức, viên chức là một chiến sĩ trên mặt trận phòng, chống tham nhũng, cần có ý thức, trách nhiệm cao trong phòng ngừa tham nhũng và cần có kỹ năng để nhận biết các hành vi tham nhũng, kịp thời phát hiện, tố giác nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại do hành vi tham nhũng gây ra, góp phần vào việc giữ ổn định cơ quan, tổ chức và phát triển đất nước bền vững.

II. NỘI DUNG

1. Một số quy định về cán bộ, công chức, viên chức

a) Nghĩa vụ của cán bộ, công chức là người đứng đầu

Điều 10 Luật Cán bộ, công chức quy định nghĩa vụ của cán bộ, công chức là người đứng đầu như sau:

“Ngoài việc thực hiện quy định về nghĩa vụ của cán bộ, công chức đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân; nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ, cán bộ, công chức là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị còn phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây:

1. Chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị;

2. Kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc thi hành công vụ của cán bộ, công chức;

3. Tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống quan liêu, tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và chịu trách nhiệm về việc để xảy ra quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong cơ quan, tổ chức, đơn vị;

4. Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về dân chủ cơ sở, văn hóa công sở trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; xử lý kịp thời, nghiêm minh cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý có hành vi vi phạm kỷ luật, pháp luật, có thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà cho công dân;

5. Giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cá nhân, tổ chức;

6. Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.”

b) Những việc cán bộ, công chức không được làm

Điều 18 Luật Cán bộ, công chức quy định những việc cán bộ, công chức không được làm liên quan đến đạo đức công vụ, như sau:

“1. Trốn tránh trách nhiệm, thoái thác nhiệm vụ được giao; gây bè phái, mất đoàn kết; tự ý bỏ việc hoặc tham gia đình công.

2. Sử dụng tài sản của Nhà nước và của nhân dân trái pháp luật.

3. Lợi dụng, lạm dụng nhiệm vụ, quyền hạn; sử dụng thông tin liên quan đến công vụ để vụ lợi.

4. Phân biệt đối xử dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo dưới mọi hình thức.”

Điều 19 Luật Cán bộ, công chức quy định những việc cán bộ, công chức không được làm liên quan đến bí mật nhà nước, như sau:

“1. Cán bộ, công chức không được tiết lộ thông tin liên quan đến bí mật nhà nước dưới mọi hình thức.

2. Cán bộ, công chức làm việc ở ngành, nghề có liên quan đến bí mật nhà nước thì trong thời hạn ít nhất là 05 năm, kể từ khi có quyết định nghỉ hưu, thôi việc, không được làm công việc có liên quan đến ngành, nghề mà trước đây mình đã đảm nhiệm cho tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc liên doanh với nước ngoài.

3. Chính phủ quy định cụ thể danh mục ngành, nghề, công việc, thời hạn mà cán bộ, công chức không được làm và chính sách đối với những người phải áp dụng quy định tại Điều này.”

Điều 20 Luật Cán bộ, công chức quy định những việc khác cán bộ, công chức không được làm như sau:

“Ngoài những việc không được làm quy định tại Điều 18 và Điều 19 của Luật Cán bộ, công chức nêu trên, cán bộ, công chức còn không được làm những việc liên quan đến sản xuất, kinh doanh, công tác nhân sự quy định tại Luật phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và những việc khác theo quy định của pháp luật và của cơ quan có thẩm quyền.”

c) Những việc viên chức không được làm

Điều 19 Luật Viên chức quy định những việc viên chức không được làm như sau:

“1. Trốn tránh trách nhiệm, thoái thác công việc hoặc nhiệm vụ được giao; gây bè phái, mất đoàn kết; tự ý bỏ việc; tham gia đình công.

2. Sử dụng tài sản của cơ quan, tổ chức, đơn vị và của nhân dân trái với quy định của pháp luật.

3. Phân biệt đối xử dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo dưới mọi hình thức.

4. Lợi dụng hoạt động nghề nghiệp để tuyên truyền chống lại chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước hoặc gây phương hại đối với thuần phong, mỹ tục, đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân và xã hội.

5. Xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác trong khi thực hiện hoạt động nghề nghiệp.

6. Những việc khác viên chức không được làm theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và các quy định khác của pháp luật có liên quan.”

d) Các hình thức kỷ luật đối với cán bộ, công chức

Điều 7 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP ngày 18 tháng 9 năm 2020 của Chính phủ  về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức quy định các hình thức kỷ luật đối với cán bộ, công chức như sau:

“1. Áp dụng đối với cán bộ

a) Khiển trách.

b) Cảnh cáo.

c) Cách chức.

d) Bãi nhiệm.

2. Áp dụng đối với công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý

a) Khiển trách.

b) Cảnh cáo.

c) Hạ bậc lương.

d) Buộc thôi việc.

3. Áp dụng đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý

a) Khiển trách.

b) Cảnh cáo.

c) Giáng chức.

d) Cách chức.

đ) Buộc thôi việc.”

 

đ) Các quy định liên quan sau khi có quyết định kỷ luật đối với cán bộ, công chức

Điều 39 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP ngày 18 tháng 9 năm 2020 của Chính phủ  về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức quy định các quy định liên quan sau khi có quyết định kỷ luật đối với cán bộ, công chức như sau:

“1. Công chức bị xử lý kỷ luật bằng hình thức hạ bậc lương, nếu đang hưởng lương từ bậc 2 trở lên của ngạch hoặc chức danh thì xếp vào bậc lương thấp hơn liền kề của bậc lương đang hưởng. Thời gian hưởng bậc lương mới kể từ ngày quyết định kỷ luật có hiệu lực. Thời gian xét nâng bậc lương lần sau để trở lại bậc lương cũ trước khi bị kỷ luật được tính kể từ ngày quyết định kỷ luật có hiệu lực. Thời gian giữ bậc lương trước khi bị kỷ luật hạ bậc lương được bảo lưu để tính vào thời gian xét nâng bậc lương lần kế tiếp. Trường hợp công chức đang hưởng lương bậc 1 hoặc đang hưởng phụ cấp thâm niên vượt khung của ngạch hoặc chức danh thì không áp dụng hình thức kỷ luật hạ bậc lương; tùy theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm pháp luật, cấp có thẩm quyền xem xét áp dụng hình thức kỷ luật phù hợp.

2. Công chức bị xử lý kỷ luật buộc thôi việc

a) Công chức bị xử lý kỷ luật buộc thôi việc thì không được hưởng chế độ thôi việc nhưng được cơ quan bảo hiểm xã hội xác nhận thời gian làm việc đã đóng bảo hiểm xã hội để thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật.

b) Cơ quan có thẩm quyền quản lý công chức lưu giữ hồ sơ công chức bị kỷ luật buộc thôi việc có trách nhiệm cung cấp bản tóm tắt lý lịch và nhận xét (có xác nhận) khi công chức đó yêu cầu.

c) Sau 12 tháng, kể từ ngày quyết định kỷ luật buộc thôi việc có hiệu lực, công chức bị xử lý kỷ luật buộc thôi việc được quyền đăng ký dự tuyển vào các cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước. Trường hợp bị xử lý kỷ luật buộc thôi việc do tham nhũng, tham ô hoặc vi phạm đạo đức công vụ thì không được đăng ký dự tuyển vào các cơ quan hoặc vị trí công tác có liên quan đến nhiệm vụ, công vụ đã đảm nhiệm.

3. Trường hợp công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý có hành vi vi phạm pháp luật bị xử lý ở hình thức kỷ luật giáng chức mà không còn chức vụ thấp hơn chức vụ đang giữ thì giáng xuống không còn chức vụ.

4. Quyết định xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức đã được cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền hoặc Tòa án kết luận là bị oan, sai thì chậm nhất là 10 ngày làm việc kể từ ngày có văn bản kết luận của cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền hoặc từ ngày quyết định của Tòa án có hiệu lực, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi cán bộ, công chức làm việc có trách nhiệm công bố công khai tại cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi cán bộ, công chức đang công tác. Trường hợp đã ban hành quyết định kỷ luật theo kết luận của bản án phúc thẩm và không có kết luận của cơ quan có thẩm quyền bị oan, sai nhưng sau đó có thay đổi về hình phạt ở bản án mới theo quy định của pháp luật về tố tụng thì việc xử lý quyết định kỷ luật đã ban hành do cấp có thẩm quyền xử lý kỷ luật xem xét, quyết định.

5. Công chức bị xử lý kỷ luật bằng hình thức giáng chức, cách chức, buộc thôi việc, sau đó được cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền hoặc Tòa án kết luận là oan, sai mà vị trí công tác cũ đã bố trí người khác thay thế thì người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm bố trí vào vị trí công tác, chức vụ lãnh đạo, quản lý phù hợp.

6. Trường hợp công chức có hành vi vi phạm trong thời gian đang thi hành quyết định kỷ luật ở hình thức hạ bậc lương thì khi áp dụng hình thức kỷ luật mới phải khôi phục lại bậc lương đã bị hạ trước đó.

7. Trường hợp cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo kết luận việc xử lý kỷ luật công chức tiến hành không đúng quy định về áp dụng hình thức kỷ luật, trình tự, thủ tục và thẩm quyền xử lý kỷ luật thì cấp có thẩm quyền kỷ luật phải ra quyết định hủy bỏ quyết định xử lý kỷ luật đã ban hành; đồng thời cấp có thẩm quyền xử lý kỷ luật phải tiến hành xem xét xử lý kỷ luật công chức theo đúng quy định tại Nghị định số 112/2020/NĐ-CP.”

e) Các hình thức kỷ luật đối với viên chức

Điều 15 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP ngày 18 tháng 9 năm 2020 của Chính phủ  về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức quy định các hình thức kỷ luật đối với viên chức như sau:

“1. Áp dụng đối với viên chức không giữ chức vụ quản lý

a) Khiển trách.

b) Cảnh cáo.

c) Buộc thôi việc.

2. Áp dụng đối với viên chức quản lý

a) Khiển trách.

b) Cảnh cáo.

c) Cách chức.

d) Buộc thôi việc.

Viên chức bị kỷ luật bằng một trong các hình thức quy định tại Điều này còn có thể bị hạn chế thực hiện hoạt động nghề nghiệp theo quy định của pháp luật có liên quan.”

h) Các quy định liên quan sau khi có quyết định kỷ luật đối với viên chức

Điều 40 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP ngày 18 tháng 9 năm 2020 của Chính phủ  về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức quy định các quy định liên quan sau khi có quyết định kỷ luật đối với viên chức như sau:

“1. Viên chức bị xử lý kỷ luật buộc thôi việc

a) Viên chức bị xử lý kỷ luật buộc thôi việc thì không được hưởng chế độ thôi việc nhưng được cơ quan bảo hiểm xã hội xác nhận thời gian làm việc đã đóng bảo hiểm xã hội để thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật.

b) Đơn vị sự nghiệp công lập có thẩm quyền quản lý viên chức lưu giữ hồ sơ viên chức bị xử lý kỷ luật buộc thôi việc có trách nhiệm cung cấp bản sao hồ sơ lý lịch và nhận xét quá trình công tác (có xác nhận) khi viên chức bị xử lý kỷ luật có yêu cầu.

c) Sau 12 tháng, kể từ ngày quyết định kỷ luật buộc thời việc có hiệu lực, viên chức bị xử lý kỷ luật buộc thôi việc được quyền đăng ký dự tuyển vào các cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước. Trường hợp bị xử lý kỷ luật buộc thôi việc do tham nhũng, tham ô hoặc vi phạm đạo đức công vụ thì không được đăng ký dự tuyển vào vị trí công tác có liên quan đến nhiệm vụ đã đảm nhiệm.

2. Quyết định xử lý kỷ luật đối với viên chức đã được cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền hoặc Tòa án kết luận là bị oan, sai thì chậm nhất là 10 ngày làm việc kể từ ngày có văn bản kết luận của cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền hoặc từ ngày quyết định của Tòa án có hiệu lực, người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập quản lý viên chức có trách nhiệm công bố công khai tại đơn vị nơi viên chức đang công tác. Trường hợp đã ban hành quyết định xử lý kỷ luật theo kết luận của bản án phúc thẩm và không có kết luận của cơ quan có thẩm quyền bị oan, sai nhưng sau đó có thay đổi về hình phạt ở bản án mới theo quy định của pháp luật về tố tụng thì cấp có thẩm quyền xử lý kỷ luật xem xét, quyết định.

3. Viên chức bị xử lý kỷ luật bằng hình thức cách chức, buộc thôi việc, sau đó được cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền hoặc Tòa án kết luận là oan, sai mà vị trí công tác cũ đã bố trí người khác thay thế, thì người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập có thẩm quyền có trách nhiệm bố trí vào vị trí công tác, chức vụ quản lý phù hợp.

4. Trường hợp cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo kết luận việc xử lý kỷ luật viên chức tiến hành không đúng quy định về áp dụng hình thức kỷ luật, trình tự, thủ tục và thẩm quyền xử lý kỷ luật thì cấp có thẩm quyền đã ký quyết định kỷ luật phải ra quyết định hủy bỏ quyết định xử lý kỷ luật; đồng thời đơn vị sự nghiệp công lập có thẩm quyền xử lý kỷ luật phải tiến hành xem xét xử lý kỷ luật viên chức theo đúng quy định tại Nghị định số 112/2020/NĐ-CP.”

2. Một số văn bản pháp luật liên quan đến cán bộ, công chức, viên chức với công tác phòng, chống tham nhũng

Cụ thể hóa các chủ trương của Đảng về công tác phòng, chống tham nhũng, Nhà nước đã ban hành hệ thống các văn bản tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong đấu tranh phòng và chống tham nhũng, trong đó quy định rõ những nội dung liên quan đến cán bộ, công chức, viên chức đối với công tác phòng, chống tham nhũng, cụ thể:

a) Các quy định để phòng ngừa tham nhũng

- Điều 5, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định quyền và nghĩa vụ của công dân trong phòng, chống tham nhũng: “1. Công dân có quyền phát hiện, phản ánh, tố cáo, tố giác, báo tin về hành vi tham nhũng và được bảo vệ, khen thưởng theo quy định của pháp luật; có quyền kiến nghị với cơ quan Nhà nước hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng và giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng. 2. Công dân có nghĩa vụ hợp tác, giúp đỡ cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong phòng, chống tham nhũng.” Cán bộ, công chức, viên chức là công dân Việt Nam do đó cần tiên phong, đi đầu trong thực hiện các quyền và nghĩa vụ này trong thực tế. Tuy nhiên, một bộ phận người dân, cán bộ, công chức, viên chức còn tâm lý lo lắng sẽ bị trả thù, trù dập nên việc đấu tranh chống tham nhũng còn những hạn chế, tại Chỉ thị số 27-CT/TW, ngày 10/01/2019 của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã nhận định “tình trạng để lộ lọt thông tin của người tố cáo; không ít trường hợp người tố cáo không được bảo vệ, bị trả thủ, trù dập; các hành vi trả thủ, trù dập chưa được phát hiện, xử lý nghiêm…..  Cán bộ, đảng viên và người dân còn chưa an tầm, ngại đầu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, góp ý, phê bình cán bộ, đảng viên vi phạm”. Để đảm bảo quyền lợi cho người đấu tranh chống tiêu cực, Bộ trưởng Bộ Công an đã ký ban hành Thông tư số 145/2020/TT-BCA ngày 29/12/2020 về quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục, biện pháp bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người tố cáo về hành vi tham nhũng, lãng phí; Bộ trưởng Bộ Nội vụ ký ban hành Thông tư số 03/2020/TT-BNV ngày 21/7/2020 quy định chi tiết về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, biện pháp bảo vệ vị trí công tác của người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức. Hai văn bản này tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong việc bảo vệ người tố cáo và bảo vệ vị trí công tác của người tố cáo, tạo tâm lý yên tâm trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, góp phần đẩy mạnh công tác đấu tranh, phòng, chống tham nhũng trong thời gian tới.

- Một trong những quy định để hạn chế tình trạng tham nhũng trong cán bộ, công chức, viên chức và người có quyền lực đó chính là thực hiện việc công khai, minh bạch và gắn với trách nhiệm của người đứng đầu, Điều 12 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định: “1. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm tổ chức thực hiện công khai, minh bạch về tổ chức và hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan. 2. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc và hướng dẫn cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc quyền quản lý thực hiện công khai, minh bạch; trường hợp phát hiện vi phạm pháp luật về công khai, minh bạch thì phải xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị người có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.” Việc không công khai, minh bạch trong hoạt động nói chung và trong thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nói riêng là một vùng tối để những cán bộ thoái hóa, biến chất thực hiện hành vi tham nhũng, một vụ việc điển hình đang được dư luận quan tâm đó là vụ Nguyễn Thị Kim Anh cựu Phó trưởng phòng Phòng chống tham nhũng, thanh tra, Bộ Xây dựng và đồng phạm “vòi tiền” của cơ quan, doanh nghiệp, vụ án xảy ra là tổng hòa của nhiều nguyên nhân trong đó sự mập mờ không công khai, minh bạch trong hoạt động công vụ đã tạo nên những con sâu làm rầu nồi canh!

- Một quy định có tính bao quát để hạn chế tình trạng tham nhũng trong cán bộ, công chức, viên chức và người có quyền lực đó chính là thực hiện các quy tắc của người có chức vụ, quyền hạn, theo đó Điều 20 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, quy định:

1. Người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ và trong quan hệ xã hội phải thực hiện quy tắc ứng xử, bao gồm các chuẩn mực xử sự là những việc phải làm hoặc không được làm phù hợp với pháp luật và đặc thù nghề nghiệp nhằm bảo đảm liêm chính, trách nhiệm, đạo đức công vụ.

2. Người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị không được làm những việc sau đây:

a) Nhũng nhiễu trong giải quyết công việc;

b) Thành lập, tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã, trừ trường hợp luật có quy định khác;

c) Tư vấn cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khác ở trong nước và nước ngoài về công việc có liên quan đến bí mật Nhà nước, bí mật công tác, công việc thuộc thẩm quyền giải quyết hoặc tham gia giải quyết;

d) Thành lập, giữ chức danh, chức vụ quản lý, điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã thuộc lĩnh vực mà trước đây mình có trách nhiệm quản lý trong thời hạn nhất định theo quy định của Chính phủ;

đ) Sử dụng trái phép thông tin của cơ quan, tổ chức, đơn vị;

e) Những việc khác mà người có chức vụ, quyền hạn không được làm theo quy định của Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức, Luật Doanh nghiệp và luật khác có liên quan.

3. Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị không được bố trí vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột của mình giữ chức vụ quản lý về tổ chức nhân sự, kế toán, làm thủ quỹ, thủ kho trong cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc giao dịch, mua bán hàng hóa, dịch vụ, ký kết hợp đồng cho cơ quan, tổ chức, đơn vị đó.

4. Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan Nhà nước không được góp vốn vào doanh nghiệp hoạt động trong phạm vi ngành, nghề mà người đó trực tiếp thực hiện việc quản lý Nhà nước hoặc để vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con kinh doanh trong phạm vi ngành, nghề do người đó trực tiếp thực hiện việc quản lý Nhà nước.

5. Thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Tổng giám đốc, Phó Tổng giám đốc, Giám đốc, Phó Giám đốc, Kế toán trưởng và người giữ chức danh, chức vụ quản lý khác trong doanh nghiệp Nhà nước không được ký kết hợp đồng với doanh nghiệp thuộc sở hữu của vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột; cho phép doanh nghiệp thuộc sở hữu của vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột tham dự các gói thầu của doanh nghiệp mình; bố trí vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột giữ chức vụ quản lý về tổ chức nhân sự, kế toán, làm thủ quỹ, thủ kho trong doanh nghiệp hoặc giao dịch, mua bán hàng hóa, dịch vụ, ký kết hợp đồng cho doanh nghiệp.”

- Theo quy định tại điều 25, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định: “Người có chức vụ, quyền hạn làm việc tại một số vị trí liên quan đến công tác tổ chức cán bộ, quản lý tài chính công, tài sản công, đầu tư công, trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân khác phải được chuyển đổi vị trí công tác”; “Thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác là từ đủ 02 năm đến 05 năm theo đặc thù của từng ngành, lĩnh vực”. Tại khoản 2, Điều 36, Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 01/7/2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng có quy định rõ các danh mục vị trí công tác phải định kỳ chuyển đổi. Việc quy định chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức nói riêng và người có chức vụ, quyền hạn được đánh giá là một trong những quy định có tính cấp thiết, mang tính chủ động trong công tác phòng, chống tham nhũng trong giai đoạn hiện nay. Việc chuyển đổi vị trí công tác sẽ thực hiện được mục tiêu kép, thứ nhất, để phòng tránh trường hợp một cá nhân công tác tại một vị trí công tác lâu năm sẽ “bén rễ” phát sinh tiêu cực, khắc phục tâm lý chủ quan, thỏa mãn, trì trệ; Thứ hai, để thực hiện mục tiêu đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức giỏi một việc, biết nhiều việc, tạo môi trường cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có điều kiện tiếp xúc nhiều công việc, lĩnh vực khác nhau, có kiến thức toàn diện đáp ứng yêu cầu công tác cán bộ trước mắt và lâu dài.

b)  Song song với các quy định để phòng ngừa, kiểm soát quyền lực, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đưa ra nhiều quy định để kiểm soát nguồn thu nhập, kiểm soát việc nhận quà biếu của cán bộ, công chức, viên chức, phục vụ cho công tác đấu tranh chống tham nhũng

- Điều 34, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định đối tượng phải thực hiện công tác kê khai tài sản, thu nhập, bao gồm:

1. Cán bộ, công chức.

2. Sĩ quan Công an nhân dân; sĩ quan Quân đội nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp.

3. Người giữ chức vụ từ Phó trưởng phòng và tương đương trở lên công tác tại đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, người được cử làm đại diện phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.

4. Người ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu HĐND.

- Khoản 2, Khoản 3, Điều 51, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định “Người được dự kiến bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, phê chuẩn, cử giữ chức vụ mà kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, giải trình nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm không trung thực thì không được bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, phê chuẩn, cử vào chức vụ đã dự kiến. Người có nghĩa vụ kê khai không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, giải trình nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm không trung thực thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, bị xử lý kỷ luật bằng một trong các hình thức cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức, cách chức, buộc thôi việc hoặc bãi nhiệm; nếu được quy hoạch vào các chức danh lãnh đạo, quản lý thì còn bị đưa ra khỏi danh sách quy hoạch; trường hợp xin thôi làm nhiệm vụ, từ chức, miễn nhiệm thì có thể xem xét không kỷ luật.” Khoản 2, Điều 20, Nghị định số 130/2020/NĐ-CP ngày 30/10/2020 của Chính phủ về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị quy định Người có nghĩa vụ kê khai mà tẩu tán, che dấu tài sản, thu nhập, cản trở hoạt động kiểm soát tài sản, thu nhập, không nộp bản kê khai sau 02 lần được đôn đốc bằng văn bản thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý bằng một trong các hình thức cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức, cách chức, bãi nhiệm, buộc thôi việc, giáng cấp bậc quân hàm, giáng cấp bậc hàm.

Thực tế đã có nhiều đối tượng quy định tại Điều 34, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 bị kỷ luật liên quan đến việc kê khai tài sản không sự thật, trong đó một số trường hợp đã bị kỷ luật hoặc bị bãi nhiệm tư cách đại biểu HĐND, như: ông Phạm Sỹ Quý nguyên Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Yên Bái đã kê khai thiếu gần 4.900 m2 đất ở, 27.500 m2 đất nông nghiệp đứng tên vợ; không kê khai tiền vay ngân hàng trên 9,1 tỉ đồng và nợ bạn bè 60 cây vàng, tỉnh Yên Bái đã quyết định kỷ luật ông Phạm Sỹ Quý bằng hình thức "cảnh cáo", cho thôi chức vụ Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường; bà Nguyễn Thị Nguyệt Hường nguyên đại biểu HĐND Thành phố Hà Nội bị HĐND Thành phố Hà Nội bãi nhiệm tư cách đại biểu HĐND thành phố vì không trung thực trong kê khai tài sản.

Tuy nhiên, tại nhiều báo cáo của Thanh tra Chính phủ có nhận định công tác kê khai tài sản chưa phát huy nhiều tác dụng trong công tác kiểm soát tài sản, số lượng vụ việc được phát hiện vi phạm quy định về kê khai tài sản, thu nhập chiếm tỷ lệ rất thấp.

- Việc tặng quà và nhận quà tặng vốn là một phong tục, tập quán bình thường của người Á Đông nói chung và của người Việt Nam nói riêng, thể hiện tình cảm hay sự biết ơn trong các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, phong tục này hiện nay đang có xu hướng bị lợi dụng để thực hiện hành vi đưa và nhận hối lộ. Để phòng ngừa tham nhũng thông qua thực hiện hành vi tặng quà và nhận quà tặng, Khoản 2, Điều 22, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định cán bộ, công chức, viên chức nói riêng, người có chức vụ quyền hạn nói chung “không được trực tiếp hoặc gián tiếp nhận quà dưới mọi hình thức của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan đến công việc do mình giải quyết hoặc thuộc phạm vi quản lý của mình”. Khoản 2, Điều 26, Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 01/7/2019  của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng quy định trường hợp “người có chức vụ, quyền hạn khi nhận được quà tặng không đúng quy định thì phải từ chối; trường hợp không từ chối được thì phải báo cáo Thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị mình hoặc Thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp và nộp lại quà tặng để xử lý theo quy định…”.

c) Các quy định ngăn ngừa, đấu tranh đối với các vi phạm pháp luật về Phòng, chống tham nhũng

Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, Luật cán bộ, công chức năm 2008, Luật Viên chức năm 2010, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật cán bộ, công chức và Luật viên chức năm 2019 và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng đã ban hành các quy định để xử lý đối với các hành vi vi phạm các quy định về Phòng, chống tham nhũng, các quy định này mang tính cảnh tỉnh, răn đe, xử lý từ đầu, ngăn ngừa không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, gây thất thoát tiền của của Nhà nước của người dân.

- Tại Nghị định số 90/2020/NĐ-CP ngày 13/8/2020 của Chính phủ về đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức, các quy định về phòng, chống tham nhũng là một trong những tiêu chí quan trọng được làm căn cứ để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức, cụ thể: Tiêu chí chấp hành quy định về tham ô, tham nhũng được đưa vào nhóm đạo đức lối sống (Điểm a, Điểm d, Khoản 2, Điều 3); tiêu chí thực hiện việc kê khai và công khai tài sản được đưa vào nhóm ý thức tổ chức kỷ luật (Điểm c, Khoản 4, Điều 3). Ngoài ra đối với cán bộ, công chức, viên chức lãnh đạo quản lý thì gắn việc thực hiện các quy định về phòng, chống tham nhũng trong phạm vi cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao quản lý (Điểm a, Khoản 5 Điều 3). Trên cơ sở đó tùy theo kết quả triển khai thực hiện các nội dung quy định tại các điều khoản được nêu ở trên để cơ quan có thẩm quyền đánh giá, xếp loại mức độ hoàn thành nhiệm vụ đối với cán bộ, công chức, viên chức.

- Theo quy định tại Nghị định số 112/2020/NĐ-CP ngày 18/9/2020 của Chính phủ về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức, các hành vi vi phạm các quy định về phòng, chống tham nhũng được làm căn cứ để xem xét xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức.

Các quy định về phòng, chống tham nhũng được làm căn cứ để xem xét xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, các hình thức kỷ luật cụ thể như sau:

+ Áp dụng hình thức kỷ luật khiển trách đối với cán bộ, công chức có hành vi vi phạm lần đầu, gây hậu quả ít nghiêm trọng thuộc 1 trong 9 hành vi được nêu tại điều 8, Nghị định 112/2020/NĐ-CP (Khoản 4, Điều 8, Nghị định 112/2020/NĐ-CP quy định vi phạm về phòng, chống tham nhũng).

+ Áp dụng hình thức kỷ luật cảnh cáo đối với cán bộ, công chức đã bị xử lý kỷ luật bằng hình thức khiển trách theo quy định tại điều 8, Nghị định 112/2020/NĐ-CP mà tái phạm hoặc có hành vi vi phạm lần đầu, gây hậu quả nghiêm trọng thuộc 1 trong các trường hợp quy định tại Điều 8 (Điều 9, Nghị định 112/2020/NĐ-CP)

+ Áp dụng hình thức kỷ luật hạ bậc lương đối với công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý đã bị xử lý kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo theo quy định tại điều 9, Nghị định 112/2020/NĐ-CP mà tái phạm hoặc có hành vi vi phạm lần đầu, gây hậu quả rất nghiêm trọng thuộc 1 trong các trường hợp quy định tại Điều 8 (Điều 10, Nghị định 112/2020/NĐ-CP)

+ Áp dụng hình thức kỷ luật giáng chức đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo quản lý đã bị xử lý kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo theo quy định tại điều 9, Nghị định 112/2020/NĐ-CP mà tái phạm hoặc có hành vi vi phạm lần đầu, gây hậu quả rất nghiêm trọng thuộc 1 trong các trường hợp quy định tại Điều 8 (Điều 11, Nghị định 112/2020/NĐ-CP)

+ Áp dụng hình thức kỷ luật cách chức đối với cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo quản lý đã bị xử lý kỷ luật bằng hình thức giáng chức theo quy định tại điều 11, Nghị định 112/2020/NĐ-CP mà tái phạm hoặc cán bộ đã bị xử lý kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo theo quy định tại Điều 9 , Nghị định 112/2020/NĐ-CP mà tái phạm  hoặc có hành vi vi phạm lần đầu, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thuộc 1 trong các trường hợp quy định tại Điều 8 (Điều 12, Nghị định 112/2020/NĐ-CP) nhưng chưa đến mức buộc thôi việc.

Các quy định về phòng, chống tham nhũng cũng được làm căn cứ để xem xét xử lý kỷ luật đối với viên chức, các hình thức kỷ luật cụ thể như sau:

+ Áp dụng hình thức kỷ luật khiển trách đối với viên chức có hành vi vi phạm lần đầu, gây hậu quả ít nghiêm trọng thuộc 1 trong 9 hành vi được nêu tại điều 16, Nghị định 112/2020/NĐ-CP (Khoản 5, Điều 16, Nghị định 112/2020/NĐ-CP vi phạm quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng).

+ Áp dụng hình thức kỷ luật cảnh cáo đối với viên chức đã bị xử lý kỷ luật bằng hình thức khiển trách theo quy định tại điều 16, Nghị định 112/2020/NĐ-CP mà tái phạm hoặc có hành vi vi phạm lần đầu, gây hậu quả nghiêm trọng thuộc 1 trong các trường hợp quy định tại Điều 16 (Điều 17, Nghị định 112/2020/NĐ-CP)

+ Áp dụng hình thức kỷ luật cách chức đối với viên chức quản lý đã bị xử lý kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo theo quy định tại điều 17, Nghị định 112/2020/NĐ-CP mà tái phạm hoặc có hành vi vi phạm lần đầu, gây hậu quả rất nghiêm trọng thuộc 1 trong các trường hợp quy định tại Điều 16 (Điều 18, Nghị định 112/2020/NĐ-CP)

+ Áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi việc đối với viên chức đã bị xử lý kỷ luật bằng hình thức cách chức đối với viên chức quản lý hoặc cảnh cáo đối với viên chức không giữ chức vụ lãnh đạo quản lý mà tái phạm hoặc có hành vi vi phạm lần đầu, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thuộc 1 trong các trường hợp quy định tại Điều 16 (Điều 19, Nghị định 112/2020/NĐ-CP).

- Nếu hành vi vi phạm các quy định về phòng, chống tham nhũng đáp ứng đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm thì sẽ bị truy tố, xét xử theo các tội danh được quy định từ Điều 353 đến Điều 359 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017).

d) Ngoài ra Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 cũng giành nguyên Chương IV (từ điều 70 đến Điều 73) để quy định chế độ trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phòng, chống tham nhũng.

3. Trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức với công tác phòng, chống tham nhũng

- Mỗi một cán bộ,công chức, viên chức cần tự nâng cao nhận thức, nâng cao ý thức trách nhiệm, tiên phong, nêu gương trong việc chấp hành các quy định về Phòng, chống tham nhũng và công tác đấu tranh, phòng, chống tham nhũng.

- Thực hiện tốt quy định trách nhiệm của công dân trong công tác Phòng, chống tham nhũng

+ Phát hiện, phản ánh, tố cáo, tố giác, báo tin về hành vi tham nhũng và được bảo vệ, khen thưởng theo quy định của pháp luật; có quyền kiến nghị với cơ quan Nhà nước hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng và giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng.

+ Hợp tác, giúp đỡ cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong phòng, chống tham nhũng

- Cán bộ, công chức, viên chức đẩy mạnh tuyên truyền, vận động người dân phát hiện, phản ánh, tố cáo, tố giác, báo tin về hành vi tham nhũng, hợp tác, giúp đỡ cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong phòng, chống tham nhũng.

- Thực hiện nghiêm các quy định về quy tắc ứng xử của người có chức vụ quyền hạn theo Luật Phòng, chống tham nhũng; chấp hành nghiêm các quy định cán bộ, công chức, viên chức không được làm để phòng, chống tham nhũng theo Luật cán bộ, công chức năm 2008, Luật Viên chức năm 2010, Luật cán bộ, công chức, Luật Viên chức sửa đổi năm 2019 và pháp luật chuyên ngành khác quy định về vị trí đang công tác.

- Thực hiện đảm bảo đầy đủ các quy định về công khai, minh bạch trong hoạt động công vụ và thực hiện trách nhiệm giải trình khi được yêu cầu.

- Thực hiện việc kê khai tài sản đảm bảo trung thực, đúng quy định.

+ Ghi rõ ràng, đầy đủ, chính xác các loại tài sản, thu nhập, biến động tài sản, thu nhập phải kê khai, nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm theo Mẫu bản kê khai tài sản, thu nhập.

+ Nếu tài sản giữa các lần kê khai có tăng lên thì giải trình rõ nguồn gốc tài sản, thu nhập tăng thêm giải thích, chứng minh về việc hình thành tài sản, thu nhập tăng thêm so với lần kê khai liền trước đó.

- Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị  trong công tác phòng, chống tham nhũng.

+ Trong công tác phòng ngừa tham nhũng, người đứng đầu có trách nhiệm: Chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức về Phòng, chống tham nhũng cho cán bộ, đảng viên trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; Có trách nhiệm chỉ đạo việc cung cấp thông tin, định hướng tuyên truyền về Phòng, chống tham nhũng, chủ động thông tin về kết quả kiểm tra, xử lý các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên sai phạm. Tổ chức triển khai các biện pháp để phòng ngừa tham nhũng tại cơ quan, tổ chức, đơn vị: Chịu trách nhiệm công khai, minh bạch hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị; xây dựng và thực hiện quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; kiểm soát xung đột lợi ích; vấn đề tặng quà và nhận quà tặng; chuyển đổi vị trí công tác của người có chức vụ, quyền hạn để phòng ngừa tham nhũng. kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

+ Trong công tác phát hiện, xử lý tham nhũng: Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm kiểm tra và tự kiểm tra để phát hiện tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị, ngăn ngừa sớm những biểu hiện lệch lạc suy thoái, triệt tiêu các mầm móng của tiêu cực, tham nhũng; thường xuyên tổ chức kiểm tra việc chấp hành pháp luật của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của mình nhằm kịp thời phát hiện hành vi tham nhũng. Khi phát hiện có hành vi tham nhũng, thủ trưởng cơ quan quản lý Nhà nước phải kịp thời xử lý theo thẩm quyền hoặc thông báo cho cơ quan thanh tra, điều tra, viện kiểm sát có thẩm quyền; thực hiện công tác tiếp công dân, giải quyết phản ánh,kiến nghị, khiếu nại, tố cáo, bảo mật thông tin, bảo đảm an toàn cho người phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo theo quy định, tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý Nhà nước và xã.

III. KẾT LUẬN

Tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2013 - 2020, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nhận định công tác Phòng, chống tham nhũng thời gian qua đã có những chuyển biến mạnh mẽ và đạt được những kết quả tích cực, rõ rệt, tham nhũng từng bước được kiềm chế, ngăn chặn, góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Luật Phòng chống tham nhũng năm 2018 và các văn bản liên quan khác đã chỉ ra chủ thể của hành vi tham nhũng chính là những người có chức vụ, quyền hạn do đó những người có chức vụ, quyền hạn cần phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, “thường xuyên tự soi, tự sửa, tự răn mình, tránh xa những cám dỗ vật chất, tham vọng” xứng đáng với niềm tin của nhân dân, của Đảng và Nhà nước.

Những đại án đã được phanh phui, xét xử là bài học nhãn tiền cho những cán bộ, công chức, viên chức đã và đang có biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống. Việc điều tra, truy tố, xét xử và tuyên những bản án thích đáng đối với một số cán bộ, công chức, viên chức phạm tội tham nhũng ở các cấp khác nhau đã thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, là lời tuyên chiến của Đảng, Nhà nước với tội phạm tham nhũng. Nhưng Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã từng khẳng định mục đích của Phòng, chống tham nhũng của Đảng ta:““Chống” tham nhũng là quan trọng, cấp bách, song cùng với đó, “phòng” tham nhũng mới là căn bản và lâu dài. Không phải cứ cốt phát hiện và xử lý cho thật nặng, mà phải răn đe, phòng ngừa, cảnh tỉnh để không xảy ra sai phạm.” Pháp luật luôn khoan hồng đối với những cán bộ, công chức, viên chức có những sai phạm, đã tham nhũng nhưng dám đối diện với sự thật, biết nhận ra lỗi lầm, quay đầu, khắc phục hậu quả.

Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng cực kỳ khó khăn, gian khổ và lâu dài nhưng chúng ta cùng tin tưởng rằng, với quyết tâm của Đảng, Nhà nước, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, công tác phòng, chống tham nhũng thời gian tới sẽ tiếp tục đạt được nhiều kết quả tích cực hơn nữa; ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng; góp phần xây dựng Đảng ta, Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh; vì uy tín của Đảng, vì sự phát triển của đất nước, vì ý nguyện và hạnh phúc của nhân dân./.


Đánh giá:

lượt đánh giá: , trung bình:



 Bình luận


Mã xác thực không đúng.
    Công khai minh bạch thông tin
    Thông báo
    Gửi nhận văn bản
    Bản đồ huyện Thạch Hà
    Tình hình giải quyết hồ sơ
     Liên kết website
    Thống kê: 2.549.903
    Online: 85
    ipv6 ready