Ứng dụng công nghệ số trong lĩnh vực lâm nghiệp đã và đang tạo điều kiện thuận lợi trong việc quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Đây cũng là yêu cầu tất yếu, bảo đảm sự minh bạch về xuất xứ, nguồn gốc lâm sản thông qua công nghệ số, đáp ứng ngày càng tốt đòi hỏi của thực tiễn hội nhập và phát triển trong giai đoạn kinh tế số hiện nay.
Để chỉ đạo xây dựng và thực hiện kế hoạch chuyển đổi số ngành lâm nghiệp, ngày 9/10/2023, Cục Lâm nghiệp đã ban hành Quyết định số 227/QĐ-LN-CĐS thành lập Ban Chỉ đạo chuyển đổi số trong lĩnh vực lâm nghiệp.
Ban sẽ chịu trách nhiệm chỉ đạo xây dựng và thực hiện kế hoạch chuyển đổi số của ngành; tập trung rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực lâm nghiệp đáp ứng yêu cầu phát sinh trong tiến trình chuyển đổi số; xây dựng chương trình, đề án, quy hoạch, kế hoạch, chiến lược lồng ghép nội dung về chuyển đổi số lĩnh vực lâm nghiệp.
Bên cạnh đó, Ban cũng chỉ đạo xây dựng hệ thống dữ liệu chuyên ngành; ứng dụng công nghệ số trong hoạt động chỉ đạo điều hành và phát triển sản xuất lĩnh vực lâm nghiệp.
Để thực hiện nhiệm vụ do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giao, Cục Lâm nghiệp đã ban hành Kế hoạch chuyển đổi số năm 2023, theo đó, mục tiêu của ngành là hoàn thành danh mục cơ sở dữ liệu chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý và ban hành được kế hoạch, lộ trình cụ thể để xây dựng, triển khai các cơ sở dữ liệu trong danh mục; nâng cấp, cải tiến hệ thống thông tin quản lý ngành (FORMIS) nhằm đáp ứng các yêu cầu về cấu trúc, chuẩn hóa dữ liệu, bảo đảm cho việc cài đặt, tích hợp, kết nối các phần mềm, các ứng dụng chuyên ngành; thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu tập trung, thực hiện quản lý dữ liệu trên hệ thống FORMIS…
Theo ông Phạm Hồng Lượng, Phó Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo Chương trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững (Cục Lâm nghiệp), chuyển đổi số đang đặt ra nhiệm vụ khá nặng nề cho ngành lâm nghiệp. Với kế hoạch này, ngành xác định các lộ trình triển khai để đáp ứng mục tiêu chung của quốc gia về chuyển đổi số. Đặc thù rừng Việt Nam trải dài từ bắc chí nam, chủ yếu ở vùng núi cao, hiểm trở nên việc ứng dụng công nghệ số có nhiều khó khăn.
Bên cạnh đó, với diện tích rừng hơn 14 triệu ha, do nhiều đối tượng khác nhau đang quản lý, sử dụng (doanh nghiệp, tổ chức, các hộ gia đình, hợp tác xã, cộng đồng…), nên ứng dụng công nghệ rất nan giải, trong đó chưa kể đến khó khăn trong việc tiếp cận đối tượng sử dụng, cơ sở hạ tầng...
Phó Viện trưởng Viện Công nghiệp rừng (Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam) Nguyễn Đức Thành cho rằng, thời gian gần đây, theo chỉ đạo của Chính phủ và để đáp ứng nhu cầu chung của chuyển đổi số quốc gia, ngành lâm nghiệp đã và đang đẩy mạnh chuyển đổi số.
Đến nay, Cục Kiểm lâm đã triển khai ứng dụng dự báo cháy rừng, ứng dụng trong phân cấp nguy cơ cháy rừng. Việc cảnh báo tự động sẽ giảm thiểu thiệt hại xảy ra do cháy. Các đơn vị quản lý rừng của ngành lâm nghiệp cũng đã ứng dụng hệ thống thông tin địa lý và viễn thám trong quản lý tài nguyên rừng bền vững.
Bên cạnh đó, nhiều hoạt động như xây dựng cơ sở dữ liệu tài nguyên rừng, thực vật, lâm sản ngoài gỗ cũng đã tham gia kế hoạch chuyển đổi số…
Về đóng góp của chuyển đổi số trong phát triển, bảo vệ rừng, Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam đã cùng ngành lâm nghiệp triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu về bảo tồn, giống cây trồng, thương mại, dự báo cháy rừng… từ đó, lập kế hoạch, xây dựng kế hoạch, chiến lược đáp ứng yêu cầu nhanh hơn, tốt hơn.
Đáng chú ý, Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam đã xây dựng phần mềm số hóa quản lý và truy xuất gỗ hợp pháp; xây dựng cơ sở dữ liệu về tài nguyên rừng, tài nguyên về gỗ và lâm sản phục vụ giám định. Trước đây, việc giám định mẫu gỗ mất khoảng 2-3 ngày. Hiện nay, với chuyển đổi số và công nghệ hỗ trợ, việc giám định đã giảm xuống chỉ 10-15phút/mẫu.
Chuyển đổi số cũng đang được tiến hành tại 34 vườn quốc gia, 60 khu bảo tồn thiên nhiên và hai khu bảo vệ cảnh quan thuộc Cục Lâm nghiệp quản lý. Giám đốc Vườn quốc gia Bidoup Núi Bà (tỉnh Lâm Đồng) Lê Văn Hương cho biết, đơn vị đã sử dụng hiệu quả công nghệ viễn thám để phát hiện sớm mất rừng và suy thoái rừng.
Vườn quốc gia cùng các nhà khoa học của Trường đại học Lâm nghiệp đã tạo ra các thuật toán để thu ảnh, viết ra các phần mềm để sử dụng nội bộ. Cán bộ quản lý đơn vị thông qua điện thoại có thể cập nhật diễn biến tài nguyên rừng của hơn 70.000 ha rừng đang quản lý.
Phần mềm này sẽ ghi nhận toàn bộ quá trình tuần tra trong rừng, có tác dụng đánh dấu diễn biến trong rừng đến từng gốc cây. Bên cạnh đó, Vườn quốc gia Bidoup Núi Bà cũng sử dụng phần mềm để quản lý những động vật quý hiếm.
Tương tự, hiện nay các vườn quốc gia: Cúc Phương, Bạch Mã, Pù Mát, Cát Bà, Bù Gia Mập… cũng đã áp dụng công nghệ số trong việc quản lý rừng và động vật quý hiếm, góp phần hiệu quả trong công tác bảo vệ rừng.
Với những quy định mới của EU về truy xuất nguồn gốc lâm sản hợp pháp, sản xuất nông sản không xâm hại, gây mất rừng, ngành lâm nghiệp đang gặp khó khăn trong việc phân định diện tích rừng với diện tích trồng cà-phê, cao-su.
Để thích ứng với Quy định chống phá rừng (EUDR), ngành lâm nghiệp phải quan tâm tới cơ sở dữ liệu để xác định chỉ dẫn địa lý; có các dữ liệu nền tảng để so sánh, đối chiếu và biết chính xác được diện tích, các diễn biến của quá trình chuyển đổi, sản xuất, thương mại nhằm minh bạch được quá trình sản xuất.
Do đó, ứng dụng chuyển đổi số trong quản trị rừng ngoài việc cung cấp thông tin chi tiết và chính xác vị trí của từng khoảnh rừng, lô đất của khu vực sẽ góp phần bảo vệ rừng tốt hơn và minh bạch hóa trong quá trình sản xuất lâm nghiệp.
Đẩy mạnh chuyển đổi số đi đôi với phổ biến, tập huấn cũng sẽ giúp các chủ rừng là hợp tác xã, cộng đồng dân cư, doanh nghiệp dễ tương tác và tiếp cận được nhiều thông tin, các tiện ích mà chuyển đổi số mang lại…